Tắc mạch ối và những điều cần biết

Chào bạn, nếu bạn là sinh viên Y Khoa đã, đang hoặc sắp đi thực hành lâm sàng tại bệnh viện thì không nên bỏ qua Khóa học kiến thức lâm sàng nội khoa này nhé! Đây là khóa học chất lượng được đánh giá cao bởi khoảng 400 thành viên đăng ký là các sinh viên Y Khoa trên khắp cả nước và các bác sĩ nội khoa.

Hội chứng “Tắc mạch ối” (Amniotic Fluid Embolism) rất hiếm gặp trong sản khoa. Tuy hiếm, nhưng 80% trường hợp mắc phải đều dẩn đến tử vong. Th.S‐BS Nguyễn Công Nghĩa, hiện là Nghiên cứu sinh tiến sĩ Dịch tễ học sinh sản‐ĐH North Carolina

  • Chapel Hill, Hoa Kz có bài viết riêng cho VietNamNet về hội chứng này.

Tắc mạch ối (Amniotic Fluid Embolism) là một cấp cứu sản khoa rất hiếm gặp. Hội chứng này xảy ra khi nước ối, tế bào thai nhi, bọt khí, chất gây, tóc hoặc các mảnh tổ chức thai khác lọt vào hệ tuần hoàn của mẹ, gây ra suy hô hấp và tuần hoàn cấp tính.

Hội chứng này được Meyer mô tả lần đầu năm 1926, tuy nhiên các triệu chứng lâm sàng chỉ gây chú ý cho các nhà sản khoa tới tận năm 1941.

Lần đầu tiên, một xem x t hồi cứu kỹ lưỡng các trường hợp này được thực hiện bởi Morgan năm 1979. Kể từ đó, hệ thống đăng kiểm quốc gia cho bệnh lý này ra đời tại Mỹ.

Ít xuất hiện, khó chẩn đoán nhưng nguy hiểm

Bệnh lý xuất hiện với tần suất rất thấp, khoảng 1 trường hợp trong 8.000 – 30.000

thai ngh n. Cả nước Anh chỉ có 3‐4 trường hợp mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong của bệnh lý là rất cao, khoảng 80% các trường hợp mắc phải.

Do số lượng các trường hợp thấp nên đến nay, người ta chưa có bằng chứng rõ ràng về các yếu tố gọi là nguy cơ. Mặc dù vậy, trước đây, nhiều quan điểm cho rằng các bà mẹ nhiều tuổi, sinh nhiều lần, chuyển dạ nhanh một cách khác thường, thai to, hoặc sử dụng các thuốc tăng co tử cung, có liên quan tới tăng nguy cơ của bệnh lý này.

Nhìn chung, tắc mạch ối thường xảy ra trong quá trình chuyển dạ, mổ đẻ chủ động, nhưng cüng có thể xảy ra khi nạo thai, truyền dịch ối vào buồng tử cung, hay chấn thương ổ bụng, hoặc thậm chí sau đẻ.

Giới chuyên môn xem hội chứng này có bản chất là một quá trình “sốc phản vệ”, chứ không phải đơn thuần là một “tắc mạch”. Lý do, người ta nghi nước ối và các tế bào thai nhi khi lọt vào hệ tuần hoàn đã kích thích phản ứng phản vệ của cơ thể mẹ với các kháng nguyên từ thai.

Tuy nhiên có sự hiểu lầm phổ biến rằng sự xuất hiện của các tế bào thai như tế bào biểu bì họăc tế bào lá nuôi trong tuần hoàn máu mẹ (máu từ động mạch phổi) là dấu hiệu khẳng định chẩn đoán. Các dữ liệu cho thấy rằng các tế bào này thường xuyên tìm thấy trong tuần hoàn của máu mẹ trên cả những người không có bệnh lý này.

Sự xuất hiện các tế bào này là một nghi vấn trong các trường hợp nghi ngờ, nhưng phải kết hợp với bệnh cảnh lâm sàng của rối loạn huyết động và hô hấp để khẳng định chẩn đoán.

Hiện tại, giới chuyên môn đang hướng sự chú ý tới sự phân rã nhân các tế bào khổng lồ để giải phóng các histamine và các men tryptase, đồng thời hoạt hoá một chuỗi phản ứng phô phức tạp khác.

Hồi sức tích cực để cấp cứu…

Trong khi chờ đợi giới chuyên môn đưa ra thêm những kết quả nghiên cứu mới, ta hãy theo dõi diễn biến hội chứng này…

Quá trình bệnh lý thường xảy ra theo 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1 là sự co thắt của động mạch phổi, tăng áp lực động mạch phổi và tâm thất phải cấp tính gây giảm oxy huyết. Giảm oxy huyết gây ra phá huỷ các mao mạch cơ tim và mao mạch phổi, gây suy tim trái, và hội chứng suy hô hấp cấp.

Khoảng 50% trường hợp sống sót qua giai đoạn 1 (k o dài khoảng 1 giờ), sẽ bước vào giai đoạn 2 là giai đoạn chảy máu đồng bộ và đông máu rải rác lòng mạch

Bệnh cảnh lâm sàng xuất hiện rất nhanh với các dấu hiệu khó thở cấp tính, đôi khi ho, huyết áp hạ nhanh và đột ngột nhất là huyết áp tâm trương, tím tái quanh môi và các đầu chi, có thể ngừng tim, hoặc các dấu hiệu phù phổi cấp. Về theo dõi sản khoa, nhịp tim thai chậm, chảy máu từ tử cung trong giai đoạn muộn

Cần chẩn đoán phân biệt với rất nhiều hội chứng khác như tắc mạch do huyết khối, tắc mạch khí, sốc nhiễm khuẩn, nhồi máu cơ tim cấp tính, sôc phản vệ do các nguyên nhân khác, rau bong non, hay phản ứng gây tê tại chỗ.

Việc điều trị mang tính hỗ trợ chứ không phải điều trị căn nguyên.

Đối với hội chứng này, vai trò của cán bộ và kỹ thuật hồi sức quan trọng hơn là nhà sản khoa. Trong trường hợp xử lý, các nhà hồi sức thường áp dụng 4 nguyên tắc chính trong điều trị bao gồm tăng cường thông khí, tăng cường oxy, hỗ trợ tuần hoàn và điều chỉnh rối loạn đông máu.

Về phương diện sản khoa, nhiều tác giả đề nghị mổ đẻ ngay khi có thể, trước hết là để cứu thai nhi, sau đó để dễ dàng hơn tái lập cân bằng huyết động. Khi mổ đẻ có thể thắt động mạch tử cung hai bên để cầm máu.

Kết quả điều trị là thấp cho dù tất cả những nỗ lực nói trên. Tuy nhiên, điều trị

tich cực vẫn có thể mang lại hy vọng cứu sống bệnh nhân. Ví dụ, các bác sĩ tại KK Women and Children Hospital đã báo cáo 2 trường hợp bệnh nhân sống sót sau các điều trị tích cực vào năm 2002. Mô tả chi tiết về điều trị của họ có thể tìm thấy tại http://www.ispub.com/ostia/index.php…2/amniotic.xml

Những nghiên cứu ở thời điểm hiện tại trên bệnh lý này cho ph p kết luận rằng, tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa nguy hiểm, tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng.

Tuy nhiên, các nhà sản khoa cần hết sức cảnh giác và có những điều trị tích cực khi xảy ra để có thể mang lại hy vọng sống sót cao hơn cho cả thai phô và thai nhi.

Đăng ký nhận thông báo
Thông báo về
guest
0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả các bình luận
You cannot copy content of this page
Copy link
Powered by Social Snap