Triệu chứng lâm sàng của suy thận mạn tính

Chào bạn, nếu bạn là sinh viên Y Khoa đã, đang hoặc sắp đi thực hành lâm sàng tại bệnh viện thì không nên bỏ qua Khóa học kiến thức lâm sàng nội khoa này nhé! Đây là khóa học chất lượng được đánh giá cao bởi khoảng 400 thành viên đăng ký là các sinh viên Y Khoa trên khắp cả nước và các bác sĩ nội khoa.

Giai đoạn đầu thường không biểu hiện lâm sàng, các triệu chứng chỉ xuất hiện khi có biến chứng liên quan đến cường cận giáp, tăng huyết áp, thiếu máu… Do rối loạn nội môi, nên suy thận mạn ảnh hưởng tới tất cả các cơ quan trong cơ thể.

Người bệnh đi khám chỉ với biểu hiện chán ăn mệt mỏi, sụt cân, mất ngủ… hoặc vào viện trong bối cảnh cấp tính của suy thận.. Biểu hiện lâm sàng của suy thận được gọi chung là hội chứng ure máu cao

Toàn trạng

+ Nhiệt độ: giảm

+ Da: thường có màu xám nhợt do thiếu máu và ứ đọng các sản phẩm chuyển hóa,

ngứa do lắng đọng calci gợi ý có cường chức năng tuyến cận giáp thứ phát.

+ Phù: phù trắng mềm ấn lõm, thường xuất hiện buổi sáng, ăn nhạt đỡ phù, suy thận mạn do viêm cầu thận mạn thường có phù, ngược lại suy thận mạn do viêm thận-bể thận mạn thường không có phù, ở giai đoạn cuối có thể có phù do suy tim hay suy dinh dưỡng.

+ Triệu chứng về máu:

– Thiếu máu là triệu chứng hằng định của suy thận mạn, mức độ thiếu máu tương ứng với mức độ nặng của suy thận mạn, suy thận càng nặng thiếu máu càng nhiều.( Đặc điểm của thiếu máu là chỉ thiếu dòng hồng cầu, số lượng bạch cầu và tiểu cầu bình thường. Thường thiếu máu đẳng sắc, sắt huyết thanh bình thường, không thấy phản ứng tăng sinh dòng hồng cầu ở tủy xương, không có hồng cầu non ở máu ngoại vi. Khi mức lọc cầu thận xuống 60-30 ml/ph thì số lượng hồng cầu khoảng 3,0 T/l, mức lọc cầu thận 15-30 ml/ph thì số lượng hồng cầu khoảng 2-2,5 T/l, khi mức lọc cầu thận dưới 15 ml/ph thì số lượng hồng cầu dưới 2 T/l.) Thiếu máu đáp ứng tốt với điều trị bằng erythropoietin sau 3-4 tuần.

– Xuất huyết: có thể gặp chảy máu mũi, chảy máu chân răng, chảy máu đường tiêu hóa. Nếu có chảy máu đường tiêu hóa thì làm suy giảm chức năng thận nhanh.

+ Triệu chứng tiêu hóa: giai đoạn đầu bệnh nhân thường chán ăn, buồn nôn và nôn, giai đoạn cuối có thể ỉa chảy, loét niêm mạc miệng và đường tiêu hóa. Khi điều trị bằng erythropoietin, nâng nồng độ hemoglobin lên 100-110 g/l các triệu chứng đường tiêu hóa giảm nhiều, bệnh nhân ăn ngon miệng và ăn nhiều, có thể thiếu máu đã làm nặng thêm triệu chứng tiêu hóa ở bệnh nhân suy thận mạn.

+ Triệu chứng hô hấp

Hơi thở có mùi amoniac. Rối loạn  nhịp thở Cheyne Stokes hoặc Kussmaul khi hôn mê thở chậm và yếu. Khám phổi thây có tiếng cọ màng phổi do nitơ thoát ra ngoài màng phổi gây nên.

+ Triệu chứng tim mạch: biến chứng tim mạch gặp khoảng 50-80% số bệnh nhân bị suy thận mạn. Thường gặp các biến chứng như tăng huyết áp, suy tim ứ huyết, vữa xơ động mạch, bệnh cơ tim và van tim, viêm màng trong tim, các rối loạn nhịp tim.

– Tăng huyết áp: gặp khoảng 80% số bệnh nhân suy thận mạn bị tăng huyết áp. Có một tỉ lệ thấp bệnh nhân bị tăng huyết áp phụ thuộc thể tích, những bệnh nhân này nếu được lọc máu đầy đủ thì huyết áp trở về bình thường không cần dùng thuốc. Phần lớn bệnh nhân mặc dù được lọc máu đầy đủ nhưng vẫn phải dùng thuốc hạ huyết áp để kiểm soát huyết áp. Một số ít bệnh nhân có tăng huyết áp kháng trị, những bệnh nhân này mặc dù đã sử dụng phối hợp ba loại thuốc khác nhau về cơ chế tác dụng, mỗi loại đều phải dùng liều cao, vẫn không kiểm soát được huyết áp. Những bệnh nhân này thường có biến chứng tim mạch sớm và nặng.

– Suy tim ứ huyết: là hậu quả của quá tải dịch, tăng huyết áp, nhiễm độc cơ tim, thiếu máu, và rối loạn điện giải. Tim to, các buồng tim giãn gây hở lỗ van hai lá, hở lỗ van ba lá cơ năng.

– Viêm màng ngoài tim khô hoặc có dịch khi ure máu tăng quá cao. Viêm màng ngoài tim thường liên quan với loét niêm mạc ống tiêu hóa. Khi có tiếng cọ màng ngoài tim là dấu hiệu báo tử vong trong vòng 1-14 ngày nếu không được lọc máu hay điều trị tích cực. Triệu chứng này hiện nay ít gặp vì có thận nhân tạo.

+ Triệu chứng thần kinh cơ:

– Chuột rút: có thể do giảm natri và calci máu
– Yếu cơ, lắng đọng calci trong cơ gặp ở những bệnh nhân lọc máu chu kỳ.
– Viêm thần kinh ngoại vi, biểu hiện dị cảm, cảm giác kiến bò, bỏng rát ở chân. Người ta cho là viêm thần kinh ngoại vi do ứ đọng các chất có trọng lượng phân tử trung bình, sau lọc máu các triệu chứng này hết nhanh.
– Hôn mê do ure máu cao có thể xuất hiện ở giai đoạn cuối của suy thận.

Nhẹ:

Người bệnh thấy mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, hoa mắt, trước mặt thấy có “ruồi bay”, mất ngủ.

Nặng vừa:

Người bệnh lơ mơ, nói mê sảng, vật vã.

Rất nặng:

Đi vào hôn mê, co giật do phù não, đồng tử co lại, phản ứng với ánh sáng kém.

=>Hôn mê xảy ra từ từ. Khám không thấy có dấu hiệu thần kinh khu trú, không có hội chứng màng não.

+ Triệu chứng về xương:

Tổn thương xương trong suy thận mạn được gọi chung là loạn dưỡng xương do suy thận. Có hai kiểu bệnh xương là bệnh lý xương có chu chuyển xương cao, đặc trưng bởi tăng tái cấu trúc xương (viêm xương xơ), và bệnh lý xương có chu chuyển xương thấp, đặc trưng bởi giảm tái cấu trúc xương (nhuyễn xương). Loạn dưỡng xương do thận là hậu quả của giảm calci máu, tăng phosphat máu, cường chức năng tuyến cận giáp thứ phát, nhiễm độc nhôm.

Biểu hiện lâm sàng là đau xương, xuất hiện từ từ có thể rất nhẹ cho đến nặng, bệnh nhân đòi hỏi phải dùng thuốc giảm đau. Đau thường mơ hồ, bệnh nhân không chỉ được chính xác vị trí đau, cảm giác đau sâu. Đau thường ở vùng thắt lưng cùng, khớp háng, khớp gối và hai cẳng chân. Đau xuất hiện từng đợt, kéo dài vài tuần đến hàng tháng, có thể gãy xương tự phát hay nhân một chấn thương nhẹ, thường gặp gãy cổ xương đùi và xẹp thân đốt sống.

Bất thường về nước tiểu:

Tiểu đêm, tiểu nhiều lần, nước tiểu có bọt, màu sắc bất thường (nâu đậm, đỏ,….).

 

Đăng ký nhận thông báo
Thông báo về
guest
0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả các bình luận
You cannot copy content of this page
Copy link
Powered by Social Snap